DIỄN ĐÀN LỚP 12A1 - LƯU TẤN PHÁT
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

CÓ MỘT QUÁ KHỨ KHÔNG NÊN QUÊN (Trích)

Go down

CÓ MỘT QUÁ KHỨ KHÔNG NÊN QUÊN (Trích) Empty CÓ MỘT QUÁ KHỨ KHÔNG NÊN QUÊN (Trích)

Bài gửi  Admin Fri Mar 13, 2009 8:19 pm

Nhà sử học Dương Trung Quốc

"Không quên nhưng gác lại quá khứ và hướng tới tương lai". Đó là lời bình luận của người phát ngôn Bộ Ngoại giao nước ta về quan điểm của Việt Nam nhân chuyến đi thăm Hoa Kỳ sắp tới của Thủ tướng Phan Văn Khải. Cái quá khứ "không quên nhưng gác lại" là cuộc chiến tranh mới chấm dứt cách nay ba thập kỷ. Nhưng còn có một quá khứ nữa không nên quên mà cần được nhắc lại vào thời điểm nhiều ý nghĩa này.

Năm 1980, 5 năm sau khi người Mỹ cuối cùng rút khỏi chiến trường Việt Nam, nhiều người Mỹ bị dằn vặt bởi "hội chứng Việt Nam": vì sao đạo quân hùng mạnh nhất thế giới lại không chiến thắng và phải rút khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam như kẻ thua trận? Giữa lúc đó, có một câu trả lời được viết trong một cuốn sách dày có tựa đề là một câu hỏi: "Why Vietnam?" (Tại sao Việt Nam?). Tác giả của cuốn sách này là Archimedes Patti, nguyên là một sĩ quan đứng đầu cơ quan Tình báo chiến lược OSS (The Office of Strategic Service) của Mỹ đóng bản doanh ở vùng Hoa Nam - Trung Quốc trong Thế chiến II, lại là người chỉ huy trực tiếp các đơn vị Đồng minh đầu tiên của Mỹ có mặt tại Đông Dương sau khi phát xít Nhật đầu hàng.

Chủ đề của cuốn sách được gửi gắm trong một câu thơ cổ của người Ái Nhĩ Lan (Ireland) viết về một người thuỷ thủ già đã lỡ tay bắn chết con chim báo bão khiến cho con tàu của anh ta lạc chìm trong bão tố. Người thuỷ thủ già là nước Mỹ, còn con chim báo bão là ký ức về một thời nước Mỹ đã từng là đồng minh của Hồ Chí Minh và cơn bão tố chính là hậu quả mà nước Mỹ đã phải gánh chịu khi quên mất ký ức tốt đẹp để tiến hành cuộc chiến tranh chống lại Hồ Chí Minh.

Ngày 23/8/1988, trong câu chuyện giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và con trai cố Tổng thống Mỹ J. Kenndy, vị lão tướng từng là một giáo sư sử học đã nhắc chàng trai Mỹ kém mình đúng một nửa thế kỷ tuổi tác (88-38) rằng: nhiều người Mỹ, nhất là thế hệ trẻ mới chỉ biết đến lịch sử bang giao Việt - Mỹ qua một cuộc chiến tranh khốc liệt mà quên rằng đã từng có những trang sử tốt đẹp trước đó...

Kỳ 1: Những tiếp xúc đầu tiên

Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập Việt Nam tuyên đọc ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh mở đầu bằng một câu trích dẫn từ Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ: "Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng...".

Bản Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ do vị Tổng thống đầu tiên G. Washington tuyên đọc vào năm 1776 nhưng người chấp bút viết văn kiện lịch sử này lại là một vị luật sư trẻ tuổi tên là Thomas Jefferson, người sau này đã trở thành vị tổng thống thứ ba, kế nhiệm Tổng thống John Adams.

Nhưng lại cũng có thể nói rằng Th. Jefferson cũng chính là người Mỹ đầu tiên quan tâm đến Việt Nam mà vào thời điểm đó trên các tấm bản đồ thế giới quen được gọi bằng địa danh "Cochinchina". Sau này trong một công trình khảo cứu do chính phủ Mỹ công bố vào năm 1971 (Union States - Vietnam relation 1945-1967) đã cung cấp những dữ kiện đầu tiên có liên quan đến mối quan hệ Việt - Mỹ trong lịch sử.

Chính cuốn sách này đã cho biết, khi còn "hàn vi", Th. Jefferson, con một điền chủ vùng Virginia đã rất say mê với nghề canh nông, ông từng sáng chế ra loại cày lật đất rất bén ngọt đã được Hội Nông học Pháp tặng giải thưởng và có nhiều hoạt động khuyến nông vùng quê hương mình. Cũng vì thế, qua một nhà thám hiểm người Pháp nổi tiếng đương thời tên là De Poivre từng đặt chân đến nước ta, Th. Jefferson biết đến những giống lúa cạn của xứ sở Cochinchine mà ông mong muốn có được để trồng thử nghiệm tại vùng Virginia. Lưu trữ của Hoa Kỳ còn cho biết những bức thư của ông gửi tới nhiều người thổ lộ sự quan tâm của mình đến xứ sở có giống lúa ấy.

Đặc biệt trong thời gian Th. Jefferson làm công sứ của Hoa Kỳ tại Pháp, đúng vào lúc Hoàng tử Cảnh đang có mặt tại cung điện Versaillles cùng giáo sĩ Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc) sang cầu viện Pháp để chống chọi với nhà Tây Sơn. Ông đã gặp vị hoàng tử lưu vong này và bày tỏ đề nghị của mình, nhưng khi đó nước Pháp sắp bước vào cuộc đảo lộn lớn của Cách mạng 1789 nên mọi việc đều không thành... rồi Th. Jefferson trở thành tổng thống Mỹ hai nhiệm kỳ mở đầu thế kỷ XIX (1804-1808). Như vậy, Th. Jefferson chính là người Mỹ đầu tiên tiếp xúc với một người Việt Nam là Hoàng tử Cảnh vào năm 1877.

Năm 1803, cũng chính vào thời điểm Th. Jefferson là tổng thống, chiếc tàu biển đầu tiên của Hoa Kỳ đã dong buồm cặp bến cảng Tourane (Đà Nẵng) cận kề kinh đô Huế lúc này đã được trị vì bởi Gia Long, vua cha của hoàng tử Cảnh. Đó là chiếc tàu mang tên "Fame" do thuyền trưởng J. Briggs chỉ huy đến khảo sát khả năng giao thương với vùng đất Cochinchina. Có thể coi viên thuyền trưởng và hải đoàn của mình là những công dân Mỹ đầu tiên đặt chân đến nước ta (?). Viên thuyền truởng đã tiếp xúc với các quan chức địa phương, Vua Gia Long cũng như triều đình Việt Nam theo dõi chặt chẽ hoạt động của con tàu trong mối e ngại về những nguy cơ từ phương Tây tới (Tây dương) nên giữ một thái độ "đề phòng từ lúc việc còn nhỏ", cho phép buôn bán nhưng không được đặt trụ sở trên đất liền của vương quốc.

Đầu năm 1819, cùng xuất phát từ Salem vùng Massachusetts như tàu "Fame", hai con tàu "Marmion" của thuyền trưởng Blanchard và "Franklin" của John White đi mất 5 tháng mới đến Việt Nam. Tàu đã cặp Côn Đảo, Vũng Tàu, Cần Giờ rồi đến Đà Nẵng. Cùng thời gian ấy, người ta còn ghi nhận đến những con tàu "Aurora" và "Bervely" cũng khởi hành sang Việt Nam...

Tuy nhiên những khảo sát bước đầu của con tàu này cũng như những con tàu sau đó chưa phát hiện được những nguồn lợi tương xứng với một hải trình dài dằng dặc ngăn cách hai quốc gia. Thuyền trưởng của tàu "Franklin" là John White sau đó đã viết cuốn sách "Câu chuyện về hành trình tới vùng biển Trung Hoa" (History of the voyage to the China sea). Sách được xuất bản vào năm 1823 tại Boston và ngay sau đó, năm 1824 được tái bản ở London với nhan đề "Một chuyến đi Việt Nam" (A voyage to Cochinchina) đã đi đến một kết luận phần nào cực đoan: "Đây là một xứ sở không sản xuất được gì cả... Chế độ quân chủ chuyên chế làm cho nền kinh tế khó phát triển, hết đường làm ăn tại Việt Nam". Mặc dầu viên thuyền trưởng này cũng thừa nhận là ở đây giá cả rất rẻ, có rất nhiều hải cảng tốt, vịnh Đà Nẵng là vịnh đẹp nhất thế giới, cư dân thạo nghề sông biển cạnh tranh nổi với người Trung Hoa... Tác phẩm của John White gây kích thích các chính giới phương Tây nói chung và Hoa Kỳ nói riêng chú ý tới Việt Nam.

Con tàu của John White còn trở lại Việt Nam vào cuối năm 1819 và rời Việt Nam đúng vào lúc vua Gia Long băng hà (3/2/1830). Người kế vị là Vua Minh Mạng lên ngôi lấy quốc hiệu là Đại Nam. Là một vị vua có chí lớn, muốn củng cố sức mạnh quốc gia nên không khép chặt cửa ngõ mà sẵn sàng giao thương. Cùng lúc đó, Hoa Kỳ cũng đang có nhu cầu mở rộng ảnh hưởng ở khu vực này. Năm 1826, lãnh sự Mỹ đặt tại Batavia (Indonesia thuộc Hà Lan) đã thúc giục chính phủ sớm xác lập các quan hệ thương mại với Xiêm (Thái Lan) và Đại Nam lúc này còn là những quốc gia độc lập, giữa lúc các đế quốc châu Âu đang săn lùng thuộc địa.

Năm 1829, Andrew Jackson lên làm tổng thống thứ 7 với 2 nhiệm kỳ (1829-1837) và là vị tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên quan tâm đến Việt Nam. Năm 1831 ông đã cử phái viên đầu tiên là Shilluber thương thuyết về việc lập lãnh sự nhưng không thành.

Cuối năm 1832 một phái đoàn chính thức của Hoa Kỳ mới đến Việt Nam với sứ mạng chuyển tới Hoàng đế của nước Đại Nam bức thư có chữ ký của Tổng thống Andrew Jackson. Người thực hiện sứ mạng ngoại giao đầu tiên đến tiếp xúc với triều đình Đại Nam là Edmund Robert (sách ta phiên âm thành Nghĩa đức môn La bách). Tàu bỏ neo ở Vũng Lấm, Xuân Đài, Phú Yên. Vua Minh Mạng sai hai viên đại thần là Nguyễn Tri Phương và Lý Văn Phức từ Huế vào tiếp xúc với thái độ thiện chí. Nhưng rút cuộc, sự bang giao không thành chỉ vì một lý do nghi thức. Bức quốc thư theo văn phong của Hoa Kỳ với lời mở đầu "Great and Good Friend" bị triều đình Việt Nam cho là "bất kính" vì không nêu danh người nhận và cách xưng hô không hợp thức đối với một vị Hoàng đế nên bị trả lại và vua Minh Mạng không tiếp.

Lại phải cộng thêm 4 năm nữa, 5/1836, vẫn E. Robert quay lại trên tàu "Peacock" mang theo quốc thư và lời đề nghị ký kết một hiệp ước thuơng mại với nước Đại Nam. Vua Minh Mạng hỏi quần thần về vấn đề này, thấy ý kiến còn khác nhau nên sai người vào gặp khách để giữ hoà hiếu và tìm hiểu thêm trước khi quyết định. Nhưng tới nơi thì tàu đã chuẩn bị nhổ neo, E. Robert cáo bệnh không tiếp, ít hôm sau thì ông qua đời tại Macao (12/6)... Di cảo của viên thuyền trưởng này được xuất bản ngay sau đó. Thế là những cơ hội giao thương hoà hiếu giữa hai nước bị bỏ lỡ để rồi gần một thập kỷ sau, năm 1845, không phải là những chiếc tàu buôn mà chiến thuyền USS Constitution do thuyền trưởng John Percival chỉ huy đã đến bờ biển Đà Nẵng nơi rất gần kinh đô Huế, không mang theo một sứ mạng ngoại giao nào, mà sau khi đã nhận tiếp tế lương thực và nước ngọt đã lấy cớ đòi trả tự do cho một nhà truyền giáo người Pháp, bắt cóc một số con tin Việt Nam, nổ súng thị uy rồi bỏ đi...

Thế là với sự kiện này, chiến hạm "USS Constitution" trở thành chiến hạm phương Tây đầu tiên nổ súng vào nước ta, trước khi thực dân Pháp gây hấn 2 năm (1847) và tấn công xâm luợc 13 năm (1858). Và nhà sử học người Pháp Jean Chesnaux thì đánh giá rằng đây là "hành động can thiệp quân sự đầu tiên chống Việt Nam của một chiến hạm Hoa Kỳ".

Cho đến nay, chưa có một căn cứ nào để chứng minh rằng tiếng súng từ chiến hạm "USS Constitution" được khai hoả từ Washington hay chỉ là một phản ứng tự phát của một viên thuyền trưởng nhiễm nặng tính cách giang hồ miền Viễn Tây. Còn chính phủ Hoa Kỳ thì tìm mọi cách hàn gắn sự đổ vỡ. Ngày 16/8/1849 Ngoại trưởng J. Dayton yêu cầu đặc sư của mình ở khu vực Đông Nam Á là Balestier (sử ta phiên âm là Ba li chì) chuyển cho phía Việt Nam thông điệp mong muốn ký được một hiệp ước hữu nghị và thương mại và khẳng định rằng "Chính phủ Hoa kỳ mong muốn hoà bình hơn là chiến tranh" và bày tỏ rằng cho đến lúc đó Hoa Kỳ không có một thuộc địa nào ở khu vực này như Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp... Tổng thống Z. Taylor còn viết một bức thư tới vua Tự Đức để xin lỗi hành động của viên thuyền trưởng Percival mà tổng thống "mới nghe được gần đây"... Nhưng, dường như mọi sự đã an bài, vua Tự Đức vừa bị choáng váng bởi vụ tàu chiến Pháp do Rigault de Genouilly lặp lại việc làm của tàu chiến Mỹ (1847) cũng trên cửa biển Đà Nẵng nên mọi cố gắng gây dựng mối giao hảo Mỹ - Việt trở nên vô ích...

Rốt cuộc thì Việt Nam lại rơi vào tay Pháp, còn Mỹ thì đến cuối thế kỷ XIX (1898) mới trụ lại ở châu Á một thuộc địa duy nhất là Philippin lấy từ tay người Tây Ban Nha.
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 40
Join date : 11/03/2009
Age : 32
Đến từ : 198, Tổ 08, Ấp 07, Xã Long Trung, Huyện Cai Lậy, Tỉnh Tiền Giang, Việt Nam

https://lop12a1ltp.forumvi.com

Về Đầu Trang Go down

CÓ MỘT QUÁ KHỨ KHÔNG NÊN QUÊN (Trích) Empty CÓ MỘT QUÁ KHỨ KHÔNG NÊN QUÊN (Trích) (Tiếp theo)

Bài gửi  Admin Fri Mar 13, 2009 8:20 pm

Kỳ 2: Người Việt Nam đầu tiên đến nước Mỹ

Nhiều nhà sử học Việt Nam nhắc đến tên tuổi Bùi Viện cùng với cuộc viễn du của ông thực hiện sứ mạng của triều đình Việt Nam qua Mỹ để gây cuộc giao hiếu.

Bùi Viện (1844-1878) quê ở Trình Phố (thời đó thuộc tỉnh Nam Định, nay là xã An Ninh, Tiền Hải, Thái Bình), đỗ tú tài năm Tự Đức thứ 17 (1864), 4 năm sau đỗ cử nhân. Sau khi tham gia vào việc trấn áp các cuộc nổi loạn ở ngoài Bắc, được người tiến cử, Bùi Viện theo các viên quan trong triều thực hiện nhiều sứ mạng khác nhau.

Năm 1873, trước khi vua Tự Đức buộc phải ký Hiệp ước Giáp Tuất (15/3/1874) nhượng bộ nhiều yêu sách của thực dân Pháp và nguy cơ mất cả nước đã nhỡn tiền, triều đình đã chủ trương tìm kiếm những đối trọng khác ở nước ngoài để chấn hưng đất nước và cứu vãn họa xâm lăng của thực dân Pháp. Chính Bùi Viện đã lãnh nhận sứ mạng sang Mỹ do sự tiến cử của một viên đại thần trong triều với Vua Tự Đức.

Từ cửa biển Thuận An ở Kinh đô Huế, Bùi Viện xuống thuyền ngược ra Bắc vào tháng 7 năm Quý Dậu (8/1873) và 2 tháng sau thì đến Hương Cảng lúc đó đã là nhượng địa của nước Anh và là đầu mối giao thông nối châu Á với thế giới phương Tây. Chính tại đây Bùi Viện đã kết giao được với viên lãnh sự Hoa Kỳ lai Tàu nên 2 bên giao thiệp được. Được biết ý đồ của Bùi Viện, viên lãnh sự đã viết thư giới thiệu với một nguời ở Hoa Kỳ có khả năng giúp ông tiếp cận với nguyên thủ của quốc gia này.

Cuối cùng, Bùi Viện đã đi qua Hoành Tân (Nhật) để đáp tàu sang Mỹ, rồi lưu lại ở đó mất một năm vận động mới gặp được Tổng thống Ulysses Grant (nhiệm kỳ 1868-1876). Lúc này Pháp và Mỹ đang đụng nhau trong trận chiến ở Mexico nên cũng tỏ ý muốn giúp một quốc gia đang bị Pháp uy hiếp. Nhưng hiềm nỗi, Bùi Viện không mang theo quốc thư nên 2 bên không thể có một cam kết chính thức... Vì vậy, ông lại phải lặn lội ngược về Việt Nam trở lại kinh thành Huế.

Có được thư uỷ nhiệm của vua Tự Đức, Bùi Viện lại khăn gói xuất dương một lần nữa. Năm 1875 ông lại có mặt tại Hoa Kỳ. Có trong tay quốc thư nhưng lại gặp lúc Mỹ - Pháp hết thù địch nên Tổng thống U. Grant lại khước từ sự cam kết giúp Việt đánh Pháp. Thất vọng, Bùi Viện lại trở về nước, vừa đặt chân lên bờ thì nghe tin thân mẫu từ trần nên về quê cư tang... Ít lâu sau, ông lại được vua vời vào triều đảm đương nhiều công việc. Hành trạng cũng như tư tưởng của Bùi Viện thường được ví và xếp chung vào lớp sĩ phu có tư tưởng canh tân như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ...

Tuy nhiên, cho đến nay, một tiểu sử với hành trạng như vậy của Bùi Viện đều có chung một xuất xứ là cuốn sách viết về Bùi Viện của Phan Trần Chúc xuất bản vào cuối thập kỷ 40 đến 50 của thế kỷ XX, cũng là thời điểm nước Mỹ đang can thiệp vào Việt Nam để giúp thực dân Pháp nhưng cũng mưu đồ một âm mưu lâu dài ở khu vực này. Chưa thấy một bộ chính sử nào của triều Nguyễn hay những hồ sơ lưu trữ vốn rất phong phú của Hoa Kỳ đề cập tới.

Cuộc viễn du qua Mỹ của Bùi Viện, cho đến nay vẫn được nhiều nhà sử học Việt Nam đinh ninh trong các công trình của mình; nhưng trong giới học giả Hoa Kỳ thì không thấy nói đến hoặc có nhắc đến tên tuổi và hành trạng này thì đều chú rằng "theo các nhà sử học VN".

Tuy nhiên, cũng phải nhắc đến một tên tuổi Việt Nam nữa còn được coi là người Việt Nam đến Hoa Kỳ sớm hơn cả Bùi Viện đến 4 thập kỷ (?). Đó là một nhân vật tên là Trần Trọng Khiêm, sinh năm 1821 tại làng Dòng, xã Xuân Lũng, huyện Lâm Thao tỉnh Phú Thọ. Có cả một tiểu sử hoàn chỉnh về nhân vật này được công bố.

Trần Trọng Khiêm không rõ vì lý do gì đã giết viên chánh tổng ở quê mình nên phải tìm nơi lánh nạn. Từ Phố Hiến (Hưng Yên) ông xuống làm tàu của một hãng người Trung Hoa. Năm 1843 (tức là 1 năm trước khi Bùi Viện ra đời) ông đã vượt đại dương từ Hương Cảng sang Hà Lan rồi sang Mỹ. Ở xứ sở này, không rõ ông làm những công việc gì nhưng thành danh với bút danh Lê Kim với những bài viết trên tờ "Daily Evening" (Nhật báo Buổi chiều) và một số tờ báo nhỏ ở California... Cho đến năm 1855, ông mới quay trở về nước nhà nhưng lại trở thành một nông gia ở vùng châu thổ Nam Bộ.

Yên ổn được 10 năm, năm 1864, lúc thực dân Pháp đã chiếm được mấy tỉnh Nam Bộ, Trần Trọng Khiêm nổi dậy chống Pháp ở vùng Đồng Tháp được gần 3 năm thì hy sinh (1866). Hiện còn ngôi mộ của ông với đôi câu đối phần nào nói về hành trạng đầy phiêu lưu và bí ẩn của nhân vật quê từ Đất Tổ các vua Hùng qua Mỹ rồi gửi nắm xuơng tại Nam Bộ nước Việt: "Hỡi ôi, lòng giời không tựa tấm gương tiết nghĩa vì nước quyên sinh / Mà chính khí nêu cao tinh thần Hùng - Nhị còn truyền hậu thế".

Hai nhân vật Trần Trọng Khiêm và Bùi Viện dù có một hành trạng rất hấp dẫn nhưng vẫn chưa thực thuyết phục khi để trả lời câu hỏi: Người Việt Nam nào qua Mỹ đầu tiên?

Điều chắc chắn là nhân vật Việt Nam sớm nhất có được những bằng chứng thuyết phục từng đến thăm rồi sống tại nước Mỹ lại chính là người sau đó đã trở thành Chủ tịch Hồ Chí Minh nổi danh với sự nghiệp đánh Pháp - đuổi Mỹ... nhưng lại cũng là người gây dựng những tình cảm hữu nghị giữa Việt Nam với nhân dân Pháp và Mỹ.
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 40
Join date : 11/03/2009
Age : 32
Đến từ : 198, Tổ 08, Ấp 07, Xã Long Trung, Huyện Cai Lậy, Tỉnh Tiền Giang, Việt Nam

https://lop12a1ltp.forumvi.com

Về Đầu Trang Go down

CÓ MỘT QUÁ KHỨ KHÔNG NÊN QUÊN (Trích) Empty CÓ MỘT QUÁ KHỨ KHÔNG NÊN QUÊN (Trích) (Tiếp theo)

Bài gửi  Admin Fri Mar 13, 2009 8:23 pm

Kỳ 3: Chủ tịch Hồ Chí Minh và nước Mỹ

Đọc tiểu sử Chủ tịch Hồ Chí Minh, người ta dễ nhận ra một sự thực là dấu ấn nước Mỹ luôn xuất hiện trên những khúc quanh cuộc đời hay những bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp chính trị của nhân vật hàng đầu của lịch sử giải phóng dân tộc Việt Nam, người đã góp phần "làm thay đổi diện mạo hành tinh chúng ta trong thế kỷ XX" (như đánh giá của tờ "Time" 2000).

Mùa hè 1911, rời Tổ quốc, Nguyễn Tất Thành vượt biển qua nước Pháp với niềm khao khát tìm đến đất nước của lý tưởng "Tự do - Bình đẳng - Bác ái". Nhưng Nguyễn đã không lưu lại Pháp mà tiếp tục cuộc hành trình tới nhiều quốc gia trên thế giới vừa kiếm sống bằng nghề thuỷ thủ, vừa khảo sát thực tiễn trong thiên hạ hy vọng tìm ra phương cách để trở về cứu nước.

Nơi còn bằng chứng về sự cư trú của Nguyễn sớm nhất (trước khi sống ở Anh hay Pháp) chính là Hoa Kỳ. Hiện còn lưu giữ được một lá thư ký tên Nguyễn Tất Thành đề ngày 15/12/1912 gửi từ New York cho Khâm sứ Pháp ở Huế nhờ liên hệ với thân phụ của mình đang sinh sống ở trong nước.

Lần gặp nhà báo Mỹ David Dellinger (1966), Chủ tịch Hồ Chí Minh có thuật lại rằng mình đã từng "đi ở" ở Brooklin với lương tháng 40USD, nhưng vẫn dùng thời gian rảnh rỗi để học tập và khảo sát quận nổi tiếng bởi các hoạt động nghệ thuật của thành phố New York này (Libération 10/1969).

Cho đến cuối năm 1913 mới có bằng chứng Nguyễn quay trở về châu Âu và trú ngụ tại nước Anh. Nhưng đến năm 1915 lại có những tài liệu xác nhận sự lưu trú của Nguyễn tại thành phố Boston của nước Mỹ. Khách sạn "Omni Parker House" nổi tiếng của thành phố này cho đến nay vẫn ghi nhận sự có mặt của người "phụ bếp An Nam" trẻ tuổi đã từng làm việc tại đây (1911-1913). Ngày 16/4/1915 lại có một bức thư của Nguyễn gửi về Việt Nam cho Toàn quyền Đông Dương, thông qua Toà lãnh sự Anh tại Sài Gòn vẫn nhờ tìm địa chỉ của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.

Lần đầu tiên tên gọi "Nguyễn Ái Quốc" xuất hiện, thay mặt cho một nhóm người Việt Nam yêu nước sống tại Pháp, ký dưới "Bản Yêu sách của nhân dân An Nam" (19/6/1919) gửi cho hoà hội Versailles, nơi các nước thắng trận trong Thế chiến I bàn việc phân chia lại thế giới. Đó cũng là hoạt động chính trị đầu tiên của Nguyễn khởi đầu cho một cái tên đi xuyên suốt hai thập kỷ cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Bức thư ấy được viết nhân dịp Tổng thống thứ 28 của Hoa Kỳ Woodrow Wilson đưa ra 14 nguyên tắc ứng xử giữa các quốc gia sau cuộc đại chiến. "Chủ nghĩa Wilson" mặc dầu sau này bị phên phá chỉ là cái "bánh vẽ" nhưng vào thời điểm năm 1919, nó từng là hy vọng của các dân tộc nhược tiểu. Chính bản Yêu sách ký tên Nguyễn ái Quốc đã được gửi trực tiếp cho Đoàn Hoa Kỳ do Tổng thống Wilson dẫn đầu sang Pháp, sau đó đã được viên thư ký của Tổng thống hồi âm một cách lịch thiệp.

Ít lâu sau sự kiện này, mật thám theo dõi Nguyễn Tất Thành, lúc này đã chính thức mang tên Nguyễn Ái Quốc, đã phát hiện cuộc trả lời phỏng vấn của Nguyễn với một nhà báo Mỹ qua lời giới thiệu của những thanh niên Triều Tiên đang sống và hoạt động tại Pháp. Bài trả lời phỏng vấn này sau đó được đăng trên một tờ báo của Mỹ xuất bản bằng tiếng Hoa ở Thượng Hải (tờ Ye Chi pao - Nghệ chí báo) ngày 20/9/1919 có nhan đề là "Người đại diện An Nam: Nguyễn ái Quốc". Như vậy hoạt động chính trị đầu tiên mang tính cách cá nhân của Nguyễn Ái Quốc là một bài phỏng vấn trên một tờ báo Mỹ.

Trở thành một nhà hoạt động chính trị, lần đầu tiên Nguyễn Ái Quốc bày tỏ quan điểm của mình đối với nước Mỹ là tham dự một cuộc mít tinh để phản đối bản án tử hình đối với 2 công nhân ở Mỹ vào cuối năm 1920, thời điểm Nguyễn đã đứng vào hàng ngũ cánh tả và chuẩn bị cho một quyết định quan trọng trong Đảng Xã hội Pháp.

4 năm sau, Nguyễn ái Quốc qua Liên Xô và đã lên tiếng trên một tờ báo của Quốc tế Cộng sản "Imprékor" (4/1924) lên án Mỹ tham gia liên minh đế quốc tấn công Liên bang Xô viết và trong "Bản án chế độ thực dân Pháp" (viết trong những năm 1925-1926), nhà cách mạng Việt Nam đã nhiều lần lên án chế độ bóc lột và tệ phân biệt chủng tộc ở nước Mỹ...

Nhưng khi viết sách "Đường Kách mệnh" làm tài liệu huấn luyện cho lớp chiến sĩ cách mạng đầu tiên của mình ở Quảng Châu (Trung Quốc) thì tác giả (với bí danh là Lý Thuỵ) đã viết về lịch sử Hoa Kỳ với những lời ca ngợi cuộc Cách mạng năm 1776 như một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc kinh điển và lần đầu tiên đã dịch để giới thiệu Bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ của Hoa Kỳ ra chữ quốc ngữ cho các học viên lớp đào tạo cách mạng của mình ở Quảng Châu, với lời mở đầu: "Giời sinh ra ai cũng có quyền tự do, quyền giữ tính mệnh của mình, quyền làm ăn cho sung sướng. Hễ chính phủ nào mà có hại cho dân chúng, thì dân chúng phải đạp đổ chính phủ ấy đi".

Cũng trong thời gian ở Quảng Châu (1927), Lý Thuỵ đã liên lạc với Văn phòng Đảng Cộng sản Mỹ bên cạnh Quốc tế Cộng sản... 12 năm sau (1939), khi trở lại Trung Quốc, tại Văn phòng Bát Lộ Quân của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Trùng Khánh, Nguyễn Ái Quốc gặp một nhà hoạt động chính trị Hoa Kỳ là Bác sĩ Franklin Lien Ho (gốc Hoa) vốn là Giáo sư Đại học Columbia, lúc này về làm Thứ trưởng Bộ Kinh tế của Chính phủ Trung Hoa dân quốc...

Lúc này Chiến tranh thế giới sắp bùng nổ, một cơ hội mới cho cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đang hình thành và nước Mỹ được đặt lên bàn cờ mưu luợc của nhà cách mạng Việt Nam, ít lâu sau đó mang tên Hồ Chí Minh.

Đó cũng là thời điểm mà nước Mỹ xa xôi từ bên kia Thái Bình Duơng bắt đầu quan tâm đến cái xứ sở mà như một định mệnh lịch sử, những cố gắng của cả hai bên đều không mang lại một kết quả nào cho sự thiết lập quan hệ giữa hai nhà nước, để rồi Việt Nam trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Còn nước Mỹ hùng mạnh nhưng chậm chân, mong tìm một thời cơ mới. Đó là lúc nước Pháp đã thua trận và bị phát xít Đức chiếm đóng ở chính quốc (6/1940) và ngày càng mất chủ quyền ở Đông Dương trước sức ép của Nhật Bản.

Ban đầu, Mỹ muốn mượn tay Nhật, nước đã từng đánh thắng Nga trong cuộc hải chiến tại eo biển Tushima (1905) và gạt bỏ ảnh hưởng của nhiều cường quốc Tây Âu để chiếm lĩnh Trung Hoa khổng lồ... để tiếp tục loại bỏ quyền lực thuộc địa của châu Âu khỏi châu Á, trong đó có nước Pháp ở Đông Dương. Từ 1908, Mỹ đã công nhận "những quyền lợi đặc biệt" (special interests) của Nhật ở châu Á (chiếm Đài Loan, Triều Tiên... rồi thành lập Mãn Châu quốc nhằm chia xẻ nước Trung Hoa...". Chủ nghĩa Monroe (nhằm cạnh tranh với các đế quốc ở Cựu lục địa) lúc này có cơ bành trướng sang khu vực Thái Bình Dương.

Chính viên tướng Claire Chelnault, người đại diện cho quân Đồng minh cũng là đại diện quyền lợi cho Mỹ ở chiến trường Thái Bình Dương, người mà sau này Hồ Chí Minh có nhiều quan hệ, đã từng công khai nói tới việc "Chính phủ Mỹ mong muốn thấy Pháp bị loại khỏi Đông Dương...". Do vậy, mặc dầu Mỹ đã thoả thuận và nhận tiền bán cho Pháp 120 máy bay để tăng cường phòng thủ Đông Dương, nhưng lần lữa không giao hàng cho tới lúc Nhật đã đủ sức lấn át và buộc Pháp phải đảm nhận vai trò lệ thuộc và "làm tôi tớ cho Nhật ngay tại thuộc địa cũ của mình"...

Ngày 30/7/1941, thêm 5 vạn quân Nhật đổ bộ vào Đông Dương... Nhận thấy sự bành trướng thái quá của Nhật tại Đông Dương, Mỹ lựa chọn phương án "trung lập hoá" khu vực này... Nhưng mọi cố gắng của Mỹ đều trở nên vô ích, bởi lẽ Nhật đang chuẩn bị cho một tham vọng lớn hơn nhiều... Ngày 7 qua 8/12/1941, Nhật ào ạt đánh phá Trân Châu Cảng, căn cứ quan trọng bậc nhất của Mỹ ở Thái Bình Duơng gây thiệt hại nghiêm trọng cho quân Mỹ. Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ...

Từ mùa Xuân năm 1941, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trở về nước và có mặt tại khu vực biên giới Việt Nam - Trung Hoa. Nhà cách mạng Việt Nam đã theo dõi chặt chẽ mọi động thái của thời cuộc và nhận ra cơ hội đã tới, và nước Mỹ xa xôi đã được đặt lên bàn cờ không chỉ cho mục tiêu giành độc lập cho dân tộc Việt Nam mà có thể còn hướng tới cả một mục tiêu cao hơn thế...
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 40
Join date : 11/03/2009
Age : 32
Đến từ : 198, Tổ 08, Ấp 07, Xã Long Trung, Huyện Cai Lậy, Tỉnh Tiền Giang, Việt Nam

https://lop12a1ltp.forumvi.com

Về Đầu Trang Go down

CÓ MỘT QUÁ KHỨ KHÔNG NÊN QUÊN (Trích) Empty Re: CÓ MỘT QUÁ KHỨ KHÔNG NÊN QUÊN (Trích)

Bài gửi  Sponsored content


Sponsored content


Về Đầu Trang Go down

Về Đầu Trang

- Similar topics

 
Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết